Karl Marx, Alan Greenspan, Paul Krugman, George Soros, Michael Bloomberg…đều là những người gốc Do Thái rất thành công.
Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế
Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là
Hebrew) là dân tộc thành công nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có
lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất sắc trên mặt kinh tế, tài
chính, thương mại.
Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ
khó khăn: toàn bộ dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn
nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ)
cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn
sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ tài sản cố định nào như
nhà đất, tài nguyên thiên nhiên ….
Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm
được ngay một số thành tựu cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên
lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số
số liệu sau đây:
Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là
người Do Thái, các lý thuyết họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn
nếu không nói là quyết định tới quá trình trình tiến hóa của nhân loại:
- Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị
thặng dư” và xây dựng học thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế
cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là một trong hai người Do Thái làm đảo
lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
- Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ
tín nhiệm cử làm Chủ tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Cục Dự trữ
liên bang Mỹ) nắm quyền sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ,
thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn cầu;
- Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James
Wolfensohn, hai cựu chủ tịch Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có
tác dụng rất lớn đối với các nước đang phát triển;
- 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007
là người Do Thái (cộng 13 người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970),
Milton Friedman (1976) và Paul Krugman (2008) … là những tên tuổi quen
thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện nay, các lý thuyết của họ được cả
thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng…
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không
nhỏ tới chính trị, kinh tế nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử
vài người :
- Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định
cư; đầu thế kỷ XX do căm ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm
nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD
(một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng
Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905. Nhớ ơn này, trong đại chiến
II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở Trung Quốc tuy đồng minh
số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật “làm hộ” chuyện ấy.
- Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên tới 26,5 tỷ USD.
- George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.
- Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm
thị trưởng thành phố New York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi
năm 1 USD và là chủ kênh truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới
kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng cử viên Tổng thống Mỹ khóa tới…
Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do
Thái trên toàn thế giới là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù
chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21
trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng của tạp chí Forbes là người
Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình quân cao hơn mức trung
bình của nước này.
Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức
người Mỹ có câu nói “Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế
trên vấn đề Trung Đông chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ
Israel.
Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở
trên vùng sa mạc khô cằn nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế,
khoa học kỹ thuật đều rất phát triển, dân rất giàu, GDP đầu người năm
2003 bằng 19.000 USD. Nhờ sức mạnh mọi mặt ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã
đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích của cả trăm triệu
người A Rập xung quanh …
Nguyên nhân do đâu?
Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt
lý thuyết và thực hành như vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết
định thành công của một dân tộc bắt nguồn từ truyền thống văn hóa của
dân tộc ấy.
Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có
lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn
giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới ngày nay và là chất keo bền
chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn được nguyên vẹn nòi
giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống phân tán, lưu
vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm qua.
Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân
tộc Do Thái đã bị tiêu diệt hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo
Do Thái là tôn giáo duy nhất thành công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn
tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên hàng đầu thế giới trên hầu
hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của
người Do Thái (Hebrew Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo
Ki-tô lấy nguyên văn làm phần đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước,
nhằm phân biệt với Tân Ước do các nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng
cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do Thái gọi là Kinh Talmud, quan
trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc cụ thể cho tới thời nay
vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của con người.
Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri
thức và trí tuệ thì mãi mãi không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do
Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước
đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta thì không ai có thể cướp
nổi.
Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo
dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú
trọng truyền đạt cho nhau các kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu
nghề. Người Do Thái có trình độ giáo dục tốt nhất trong các cộng đồng
thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao nhất trong sinh viên
các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ thuật và văn
hóa nghệ thuật.
Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và
tiền bạc. Đây là một điểm độc đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho,
ta cần phân tích thêm.
Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan
trọng nhất của đời sống loài người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh
giữa con người với nhau (đấu tranh giai cấp) và chiến tranh giữa các
quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học cổ điển Đức từng
nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.” Chính
Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá
nhân trên một hình thức cao hơn”.
Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều
giàu có thì khi ấy mới có sự bình đẳng đích thực, người người mới có
nhân quyền. Một xã hội có phân hóa giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng
thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên tắc làm cho mọi người cùng có
tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.
Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt
bằng đạo Do Thái, vì họ kết tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng
nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Chúa” (Tân
Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên thiên đường, ai nghèo thì
dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô thân cận với
người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản,
tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này
rất quý” (Genesis 2:12). Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật
chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do Thái, họ đều muốn giàu có.
Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000
năm khi vua Ai Cập bồi thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là
Abraham, khiến ông này “có rất nhiều súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2).
Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải giàu để có cái mà thờ cúng Ngài.
Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt nạn chém giết nhau. Khi
Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo rất nhiều súc vật.
Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như
Jacob, Saul, David … đều được Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt,
lắm tài năng, lập được công trạng lớn cho cộng đồng dân tộc và đều trở
thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa phương Đông thường ca ngợi
phẩm chất của những người nghèo.
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái.
Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và
bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy, không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở
những quốc gia và địa phương họ sống nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân
bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn.
Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm
giàu rất khôn ngoan. Thí dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo
độc đáo của người Do Thái cổ đại – về sau gọi là hệ thống ngân hàng.
Buôn bán cũng là một biện pháp tồn tại khi trong tay không có tài sản cố
định nào.
Người ta nói dân Do Thái có hai bản năng: thứ nhất là
bản năng kiếm tiền; thứ hai là bản năng làm cho tiền đẻ ra tiền – họ là
cha đẻ của thuyết lưu thông tiền tệ ngày nay chúng ta đều áp dụng với
quy mô lớn (còn ai kiếm tiền dễ hơn ngành ngân hàng?).
Tuy vậy, sự quá gắn bó với tiền bạc là một lý do
khiến người Do Thái bị chê bai. Bạn nào đã đọc tiểu thuyết Ai-van-hô
(Ivanhoe) của Walter Scott chắc còn nhớ mãi hình ảnh ông lão Do Thái
Isaac (I-sắc) đáng thương, bố của nàng Rebeca xinh đẹp và thánh thiện,
lúc nào cũng khư khư giữ túi tiền và bị hiệp sĩ Đầu Bò nhạo báng khinh
bỉ thậm tệ. Kịch của Shakespeare đưa ra nhiều hình ảnh khiến người ta có
cảm giác người Do Thái bần tiện, ích kỷ, xảo trá. Tập quán cho vay lãi
của người Do Thái bị nhiều nơi lên án.
Hệ thống cửa hiệu của người Do Thái ở Đức là đối
tượng bị Quốc Xã Hitler đập phá đầu tiên hồi thập niên 30. Người Đức có
câu ngạn ngữ “Chẳng con dê nào không có râu, chẳng người Do Thái nào
không có tiền để dành.” Karl Marx từng viết: Tiền bạc là vị thần gắn bó
với người Do Thái; xóa bỏ chủ nghĩa tư bản sẽ kéo theo sự xóa bỏ chủ
nghĩa Do Thái.
Người Do Thái có đóng góp rất lớn về lý thuyết và thực hành trong việc xây dựng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Đạo Do Thái coi làm giàu là bổn phận nặng nề của con
người; nói “nặng nề” vì người giàu có trách nhiệm to lớn đối với xã hội:
họ không được bóc lột người nghèo mà phải chia một phần tài sản của
mình để làm từ thiện. Những người Do Thái giàu có luôn sống rất giản dị,
tiết kiệm và năng làm từ thiện. Soros từng cúng 4 tỷ USD (trong tổng
tài sản 7 tỷ) cho công tác từ thiện. Không một nhà giàu Do Thái nào
không có quỹ từ thiện của mình. Từ đây có thể hiểu được tại sao cộng
đồng Do Thái lại cùng giàu có như thế.
Theo Nguyễn Hải Hoành (CaFeF)